Phẫu thuật chuyển vị động mạch là gì? Các công bố khoa học về Phẫu thuật chuyển vị động mạch

Phẫu thuật chuyển vị động mạch là một phương pháp phẫu thuật để điều trị tắc nghẽn động mạch trong cơ thể. Trong quá trình này, bác sĩ sẽ tạo một đường thoát hi...

Phẫu thuật chuyển vị động mạch là một phương pháp phẫu thuật để điều trị tắc nghẽn động mạch trong cơ thể. Trong quá trình này, bác sĩ sẽ tạo một đường thoát hiểm cho huyết quản bằng cách sử dụng một đoạn tĩnh mạch hoặc động mạch từ một bộ phận khác của cơ thể và chuyển vị nó vào vị trí mới trong huyết quản. Phẫu thuật chuyển vị động mạch đã được chứng minh là hiệu quả trong việc khắc phục tắc nghẽn động mạch và cải thiện lưu lượng máu tới các bộ phận cần thiết. Điều này giúp giảm các triệu chứng liên quan đến tắc nghẽn động mạch và nguy cơ tai biến, nhưnhưnh đau ngực hay đau rụng tim.
Phẫu thuật chuyển vị động mạch, còn được gọi là phẫu thuật chuyển vị động mạch cơ sở hoặc phẫu thuật bypass động mạch, thực hiện để tạo một con đường mở mới cho sự lưu thông máu khi động mạch bị tắc nghẽn.

Quá trình phẫu thuật bắt đầu bằng việc làm một vết mổ ở bụng, ngực hoặc chân để tiếp cận các đoạn động mạch gặp vấn đề. Tiếp theo, bác sĩ sẽ chọn một nguồn tế bào tạm thời để tạo thành một con đường mới cho máu chảy qua.

Có thể sử dụng hai phương pháp chính trong phẫu thuật chuyển vị động mạch:

1. Chuyển vị động mạch sử dụng động mạch: Trong phương pháp này, bác sĩ sẽ chọn một đoạn động mạch có nguồn cung cấp máu tốt từ một bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như ngón tay cái hay chân. Đoạn động mạch này sau đó được tách ra khỏi bộ phận nguồn gốc và được chuyển vị vào vị trí mới để kết nối với đoạn động mạch trên mạch máu bị tắc.

2. Chuyển vị động mạch sử dụng tĩnh mạch: Trong trường hợp không có đoạn động mạch phù hợp sử dụng, bác sĩ có thể lấy một đoạn tĩnh mạch từ bên trong chân hoặc từ cánh tay để tạo thành con đường mới cho máu chảy qua. Đoạn tĩnh mạch này sau đó được chuyển vị và kết nối với đoạn động mạch bị tắc.

Việc tạo ra con đường mới cho máu chảy qua hỗ trợ việc vượt qua vùng tắc nghẽn và cung cấp máu và oxy đến các bộ phận cần thiết của cơ thể. Quá trình này giảm nguy cơ tai biến và giúp cải thiện và điều trị các triệu chứng liên quan đến tắc nghẽn động mạch, chẳng hạn như đau ngực, đau rụng tim và khó thở.

Sau phẫu thuật, bệnh nhân thường được theo dõi trong thời gian ngắn trong bệnh viện để đảm bảo quá trình phục hồi tốt. Quá trình phục hồi sau phẫu thuật chuyển vị động mạch có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng, và bệnh nhân sẽ cần tuân thủ theo hướng dẫn của bác sĩ để đảm bảo sự phục hồi toàn diện.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phẫu thuật chuyển vị động mạch":

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT SỬA TOÀN BỘ BỆNH CHUYỂN VỊ ĐẠI ĐỘNG MẠCH (TGA) TẠI BỆNH VIÊN TIM HÀ NỘI
Từ 10/2014- 10/2017, 25 bệnh nhân TGA đã phẫu thuật sửa toàn bộ tại Bệnh viện Tim Hà Nội.  Tuổi  nhập  viện  trung  bình  25,8  ±  28,5 ngày tuổi .Cân nặng trung bình: 3,83 ± 1,09 kg. Tỷ lệ sống ra viện là 92% (23 trường hợp); tử vong là 8% (2 trường hợp). Kết quả phẫu thuật sớm sửa toàn bộ chuyển vị đại động mạch là khả quan với tỷ lệ thành công là 92%.
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH TIM CHUYỂN GỐC-VÁCH LIÊN THẤT NGUYÊN VẸN BẰNG PHẪU THUẬT CHUYỂN VỊ ĐỘNG MẠCH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG TRONG GIAIĐOẠN 2010-2016
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch đối với các bệnh nhân mắc bệnh chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn và các yếu tố nguy cơ có liên quan tới tử vong sau phẫu thuật được đánh giá bởi nghiên cứu này.Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 12 năm 2016, tất cả các bệnh nhân chẩn đoán chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn được phẫu thuật chuyển vị động mạchtại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương được hồi cứu. Phân tích hồi quy đa biến tuyến tính được sử dụng nhằm đánh giá yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong sau phẫu thuật. Kết quả:Có tổng số 149 bệnh nhân liên tiếp phù hợp tiêu chuẩn được thu thập vào nghiên cứu. Tuổi phẫu thuật trung bình là 30,32±23,04ngày tuổi (3-163), cân nặng trung bình là 3,46 ±0,6 kg (2.1-6.0). 2 bệnh nhân được huấn luyện thất trái trước phẫu thuật do tình trạng tâm thất trái bé và mỏng.Thời gian cặp động mạch chủ trung bình là 113,47±28,61 phút, thời gian chạy máy 172,52±52,74phút. Có 3 bệnh nhân cần hỗ trợ ECMO sau phẫu thuật chuyển vị động mạch. Tử vong sớm sau phẫu thuật có 8 bệnh nhân (5.4%) và 3 bệnh nhân tử vong muộn (2%). Không cóbệnh nhân  nào cần phải mổ lại do nguyên nhân tim mạch trong thời gian theo dõi trung bình là 22.88 ±17.48 tháng (0.5-84). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy các bệnh nhân có nhiễm trùng hô hấp sau phẫu thuật (OR=22.1) và các bệnh nhân có nhiễm khuẩn huyết sau phẫu thuật (OR=51.9) là các yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong đối với nhóm bệnh nhân chuyển gốc động mạch-lành vách liên thất. Không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm bệnh nhân sơ sinh và các bệnh nhân được phẫu thuật sau 1 tháng tuổi (p=0.484). Kết luận: Phẫu thuật chuyển vị động mạch điều trị cho các bệnh nhân chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương có kết quả rất tốt. Giảm tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện có thể giúp cải thiện hơn nữa tỷ lệ sống sót của bệnh nhân. Phẫu thuật chuyển vị động mạch thì đầu nên được cân nhắc và có thể thực hiện an toàn đối với từng trường hợp cụ thể, mặc dùphát hiện bệnh muộn.
#phẫu thuật chuyển vị động mạch #bệnh chuyển gốc động mạch #vách liên thất nguyên vẹn
BẤT THƯỜNG XUẤT PHÁT ĐỘNG MẠCH VÀNH TRÁI TỪ ĐỘNG MẠCH PHỔI: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT 60 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh tim bẩm sinh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng-phương pháp: Từ tháng 6 năm 2011 đến tháng 1 năm 2021, tổng số 60 bệnh nhân được chẩn đoán bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi được phẫu thuật chuyển động mạch vành trái trực tiếp về động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương được tiến hành nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: Cân nặng trung bình và tuổi trung bình của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu lần lượt là 5.8 ± 2.1 kg và 6.8 ± 12.4 tháng. Tỷ lệ nam/nữ là 25/35. Có 4 bệnh nhân (6.7%) có bất thường trong tim phối hợp bao gồm 2 bệnh nhân tứ chứng Fallot, 1 bệnh nhân thông liên thất và 1 bệnh nhân màng ngăn nhĩ trái-hẹp eo động mạch chủ. Kết quả siêu âm trước phẫu thuật cho thấy có 21 bệnh nhân hở van hai lá mức độ từ trung bình-nặng đến rất nặng, chức năng tâm thất trái trước mổ trung bình là 39.5 ± 15.7% (14%-76%). Có 48 trường hợp (80%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang Valsalva đối diện, 7 trường hợp (11.7%) động mạch vành trái xuất phát từ xoang không vành của động mạch phổi, và 5 trường hợp (8.3%) động mạch vành trái xuất phát từ thân động mạch hoặc gốc động mạch phổi. Thời gian chạy máy trung bình, thời gian cặp động mạch chủ trung bình của nghiên cứu lần lượt là 112.6 ± 38.3 phút và 65.5 ± 26.2 phút. Có 51 bệnh nhân (85%) được trồng trực tiếp động mạch vành trái vào động mạch chủ, và 9 bệnh nhân (15%) cần tạo đường hầm ngoài động mạch phổi. Có 3 bệnh nhân (5%) tử vong sớm tại bệnh viện. Có 4 bệnh nhân cần mổ lại trong thời gian theo dõi sau phẫu thuật (7%). Khám lại tại thời điểm cuối cùng cho thấy các bệnh nhân đều ổn định, có 3 bệnh nhân có NYHA 2, và 54 bệnh nhân còn lại đều không có triệu chứng của suy tim sau mổ. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật điều trị bệnh bất thường xuất phát động mạch vành trái từ động mạch phổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương là rất tốt. Cần tiếp tục theo dõi dài hạn và đánh giá sâu hơn nữa về tiến triển của chức năng tim và tình trạng hở van hai lá sau phẫu thuật.
#Động mạch vành trái xuất phát từ động mạch phổi #phẫu thuật chuyển động mạch vành về động mạch chủ #bệnh tim bẩm sinh
Kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch điều trị bất thường Taussig - Bing tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch cho các bệnh nhân mắc bất thường Taussig-Bing tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán bất thường Taussig-Bing và được phẫu thuật chuyển vị động mạch tại Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 2 năm 2010 đến tháng 10 năm 2021. Kết quả: Trong thời gian nghiên cứu, có tổng số 99 bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn lựa chọn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi phẫu thuật trung vị là 55 ngày (IQR, 109-26 ngày), cân nặng trung vị khi phẫu thuật là: 3,7kg (IQR, 4,45-3,2kg), với tỷ lệ nam/nữ: 3,7/1. Có 13 (13,1%) bệnh nhân tử vong sớm tại bệnh viện và 2 (2,1%) bệnh nhân tử vong muộn. Qua phân tích mô hình hồi quy đa biến Cox thấy bệnh nhân phải cặp lại động mạch chủ lần 2 là yếu tố nguy cơ tử vong (HR 4,42, 95% CI, 1,18–16,54; p = 0,028). Có 15 (15,2%) bệnh nhân mổ lại do nguyên nhân tim mạch trong thời gian theo dõi sau mổ và chỉ có 4 bệnh nhân mổ lại do hẹp đường ra thất phải. Kết luận: Kết quả phẫu thuật chuyển vị động mạch điều trị bệnh bất thường Taussig-Bing tại Bệnh viện Nhi Trung ương là khả quan và cần được tiếp tục theo dõi lâu dài để có cái nhìn toàn diện hơn về bệnh lý này.
#Bất thường Taussig-Bing #thất phải hai đường ra #chuyển gốc động mạch #phẫu thuật chuyển vị động mạch
Sửa chữa giải phẫu cho tình trạng chuyển vị động mạch lớn: Thông tin theo dõi lần đầu tiên (38 bệnh nhân) Dịch bởi AI
Pediatric Cardiology - Tập 10 - Trang 1-9 - 1989
Giữa tháng 4 năm 1983 và tháng 10 năm 1985, 38 bệnh nhân liên tiếp mắc chứng chuyển vị động mạch lớn (TGA) đã được thực hiện phẫu thuật sửa chữa giải phẫu. Độ tuổi của các bệnh nhân dao động từ 1 ngày đến 284 tuần (trung bình 26,2 tuần). Trong số đó, 17 bệnh nhân bị TGA đơn giản, 17 bệnh nhân có khe thất liên quan, và bốn bệnh nhân còn lại mắc dị tật Taussig-Bing. Tỷ lệ tử vong trong bệnh viện là 2 trong số 38 bệnh nhân, với 1 trường hợp tử vong muộn. Thời gian theo dõi dao động từ 6 đến 35 tháng. Sự thông tim sau phẫu thuật đã được thực hiện cho 34 trong số 36 bệnh nhân sống sót sớm. Chướng ngại dòng ra thất phải với độ chênh áp tâm thu >20 mmHg được phát hiện ở bốn bệnh nhân. Một lối thông tồn dư từ trái sang phải được phát hiện ở chín bệnh nhân; tỷ lệ Qp/Qs vượt quá 2.0 chỉ ở một bệnh nhân. Ở bốn bệnh nhân, tỷ lệ sức cản phổi-chương trình hệ thống tính được là >0.3. Tất cả 35 bệnh nhân sống sót đều trong tình trạng tuyệt vời. Chỉ có một bệnh nhân bị thiếu máu động mạch chủ nhẹ. Hầu hết các bất thường điện tâm đồ trước và sau phẫu thuật đã biến mất theo thời gian. Siêu âm tim cho thấy kích thước thất trái và độ co ngắn bình thường. Đường kính gốc động mạch chủ cho thấy hầu hết đều vượt quá giá trị trên 95 phần trăm của bình thường. Sau phẫu thuật, gốc động mạch chủ đã phát triển song song, nhưng trên, mức 95 phần trăm và chưa có dấu hiệu nào cho thấy xu hướng trở về bình thường.
#chuyển vị động mạch lớn #sửa chữa giải phẫu #theo dõi sau phẫu thuật #dị tật bẩm sinh #sức cản phổi-chương trình hệ thống
Chuyển gốc động mạch kèm theo vách liên thất nguyên vẹn ở trẻ sơ sinh: Kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch cho các bệnh nhân sơ sinh được chẩn đoán bất thường tim bẩm sinh chuyển gốc động mạch và vách liên thất nguyên vẹn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Tất cả các bệnh nhân sơ sinh được chẩn đoán chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn được phẫu thuật chuyển vị động mạch tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 3 năm 2010 đến tháng 12 năm 2016 được tiến hành hồi cứu. Kết quả: Có 101 bệnh nhân phù hợp tiêu chuẩn được lựa chọn vào nghiên cứu. Tuổi phẫu thuật trung bình và cân nặng trung bình lần lượt là 19,15 ± 6,92 ngày (1 - 30) và 3,34 ± 0,47kg (2,1 - 4,7). Thời gian thở máy sau phẫu thuật và thời gian nằm viện trung bình lần lượt là 112,90 ± 118,93 giờ (18 - 1056) và 21,22 ± 13,01 ngày (1 - 104). Có 6 bệnh nhân (5,9%) tử vong tại bệnh viện và 2 bệnh nhân (2%) tử vong muộn trong thời gian theo dõi sau phẫu thuật. Có 43 bệnh nhân cần để hở xương ức, 4 bệnh nhân có hội chứng cung lượng tim thấp, và 1 bệnh nhân cần hỗ trợ ECMO sau phẫu thuật. Không có bệnh nhân nào cần mổ lại sau phẫu thuật chuyển vị động mạch trong thời gian theo dõi trung bình là 19,89 ± 15,74 tháng (1 - 66). Biểu đồ Kaplan-Meier cho thấy tỷ lệ sống sót lâu dài sau phẫu thuật chuyển vị động mạch đối với các bệnh nhân chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn là 92%, 88,5% và 88,5% lần lượt với thời gian theo dõi là 1 năm, 5 năm và 8 năm. Kết luận: Kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch đối với các bệnh nhân sơ sinh mắc bệnh chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương là an toàn và rất tốt, tương đương với các trung tâm lớn trên thế giới. Một nghiên cứu khác với số lượng bệnh nhân nhiều hơn và theo dõi lâu dài hơn là hoàn toàn cần thiết.
#Chuyển gốc động mạch #phẫu thuật chuyển vị động mạch #vách liên thất nguyên vẹn #sơ sinh
CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ CHUYỂN VỊ ĐẠI ĐỘNG MẠCH: BỐN TRƯỜNG HỢP ĐẦU TIÊN TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 8 - 2022
Mục tiêu: Bước đầu đánh giá bốn trường hợp đầu tiên chuyển vị đại động mạch kiểu d (dTGA) được chẩn đoán và điều trị tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An.Phương pháp: Trình bày bốn trường hợp d-TGA được chẩn đoán lần đầu và phẫu thuật thànhcông bằng phẫu thuật Aterial Switch (ASO). Các dữ liệu lấy từ hồ sơ bệnh án điện tử trên phầnmềm EHC của Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Các thông tin bao gồm dịch tễ, triệu chứng lâm sàng,triệu chứng cận lâm sàng trước, trong và sau mổ.Kết quả: Bốn bệnh nhân được chuyển tới Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An lúc 14 ngày, 2 tháng, 26ngày và 1 ngày tuổi, chưa được chẩn đoán trước sinh, chẩn đoán d-TGA được xác định ngay saukhi vào viện. Cả bốn bệnh nhân đều được phẫu thuật chuyển gốc động mạch thành công.Kết luận: Còn nhiều khó khăn trong chẩn đoán d-TGA trước sinh và tại tuyến y tế cơ sở. Bệnhviện Sản Nhi Nghệ An là trung tâm có khả năng chẩn đoán và phẫu thuật chuyển vị đại độngmạch.
#Dị tật tim bẩm sinh #chuyển vị đại động mạch #phẫu thuật chuyển gốc động mạch.
Bất thường Taussig-Bing kèm theo tổn thương quai và eo động mạch chủ: Kết quả trung hạn phẫu thuật sửa toàn bộ tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bất thường tim Taussig-Bing kèm theo tổn thương quai và/hoặc eo động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả được tiến hành trên các bệnh nhân được phẫu thuật sửa toàn bộ bất thường Taussig-Bing kèm theo tổn thương quai và/hoặc eo động mạch chủ từ năm 2010 đến 2018 tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: Có tổng số 36 bệnh nhân phù hợp với tiêu chuẩn lựa chọn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình và cân nặng trung bình tại thời điểm phẫu thuật lần lượt là 63 ± 55 (7 - 237) ngày và 3,8 ± 0,9 (2,5 - 6,3) kg. 35 bệnh nhân (97%) có tổn thương hẹp eo hoặc thiểu sản quai động mạch chủ kèm theo được phẫu thuật sửa toàn bộ bao gồm phẫu thuật chuyển vị động mạch và phẫu thuật tạo hình quai và eo động mạch chủ trong cùng một cuộc mổ qua 1 đường mổ giữa xương ức và 1 bệnh nhân được phẫu thuật tạm thời sửa eo động mạch chủ qua đường ngực trái, sau đó 2 tuần được phẫu thuật chuyển vị động mạch. Thời gian cặp chủ trung bình là 172 ± 27 (132 - 272) phút và thời gian tưới máu não chọn lọc khi sửa quai trung bình là 34 ± 13 (17 - 65) phút. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 28 ± 52 (13 - 321) ngày. 7 bệnh nhân tử vong sớm sau mổ trong thời gian nằm viện và không có bệnh nhân tử vong muộn cho tới thời điểm theo dõi cuối cùng. 2 bệnh nhân cần mổ lại sau phẫu thuật do hẹp đường ra thất phải. Tỷ lệ sống sau mổ đạt 80,6% và tỷ lệ sống không cần phải can thiệp lại hoặc mổ lại đạt 90% với thời gian theo dõi trung bình sau mổ 34,2 ± 33,4 (1 - 107) tháng. Kết luận: Phẫu thuật chuyển vị động mạch, đóng lỗ thông liên thất và sửa quai động mạch chủ kèm theo trong phẫu thuật sửa chữa toàn bộ bất thường tim Taussig - Bing kèm theo tổn thương quai động mạch chủ tại Bệnh viện Nhi Trung ương cho kết quả tốt. Hoàn thiện kỹ thuật mổ và hồi sức góp phần nâng cao chất lượng điều trị nhóm bệnh nhân phức tạp này.
#Phẫu thuật chuyển vị động mạch #bất thường tim Taussig-Bing #thất phải hai đường ra #hẹp eo động mạch chủ #thiểu sản quai động mạch chủ #gián đoạn quai động mạch chủ #sửa toàn bộ
Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh chuyển vị đại động mạch tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật sửa toàn bộ bệnh chuyển vị đại động mạch (transposition of the great arteries - TGA) tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: Từ tháng 10/2014 đến tháng 10/2017, 25 bệnh nhân chuyển vị đại động mạch đã phẫu thuật sửa toàn bộ tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Kết quả: Tuổi nhập viện trung bình 25,8 ± 28,5 ngày tuổi. Cân nặng trung bình: 3,83 ± 1,09kg. Tỷ lệ sống ra viện là 92% (23 trường hợp), tử vong là 8% (2 trường hợp). Kết luận: Kết quả phẫu thuật sớm sửa toàn bộ chuyển vị đại động mạch là khả quan với tỷ lệ thành công là 92%.  
#Chuyển vị đại động mạch #tim #phẫu thuật sửa chữa
Medium-term results of thoraci aortic aneurysm repair by endovascular intervention
Mục tiêu: Đánh giá kết quả trung hạn ứng dụng kỹ thuật can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực, kèm hoặc không chuyển vị các nhánh động mạch nuôi não. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu các bệnh nhân phình động mạch chủ ngực được điều trị bằng phương pháp can thiệp nội mạch tại Khoa Phẫu thuật Tim, Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 8/2013 đến tháng 10/2019. Kết quả: Trong 80 bệnh nhân, có 62 nam (78%), 18 nữ (22%), tuổi trung bình 64,7 ± 11,6 (31-87) tuổi. Yếu tố nguy cơ thường gặp là tăng huyết áp 61 (76%), hút thuốc lá 51 (64%), rối loạn lipid máu 49 (61%). Phình dạng túi 49 (61%), phình dạng thoi 31 (39%). Đường kính túi phình trung bình 64 ± 15 (mm). Đường kính trung bình ĐM đường vào 7,23 ± 1,13 (mm). Có 43 trường hợp được phẫu thuật chuyển vị các nhánh động mạch nuôi não trước can thiệp (54%). Tỷ lệ thành công của can thiệp là 95%. Tỷ lệ tử vong sớm 3 (3,7%), không gặp các biến chứng như di lệch, tắc hẹp, gãy hoặc xoắn vặn ống ghép, lóc tách ĐMC, lấp động mạch nuôi não. Thời gian theo dõi trung bình là 36,78 ± 17,27 tháng. Tỷ lệ tử vong trung hạn là 9 (11,7%). Có 5 trường hợp rò nội mạch và 3 trường hơp nhồi máu não được ghi nhận trong giai đoạn theo dõi trung hạn, 2 trường hợp can thiệp lại chiếm 2,6%. Kết luận: Điều trị phình động mạch ngực bằng phương pháp can thiệp nội mạch, kèm hoặc không phẫu thuật chuyển vị các nhánh động mạch nuôi não được thực hiện an toàn và khả thi với kết quả sớm và trung hạn tốt.
#Phình động mạch chủ ngực #can thiệp nội mạch #phẫu thuật chuyện vị các động mạch nuôi não
Tổng số: 10   
  • 1